2 Ở đây chúng ta quan sát thấy – God
là vị cai trị tối cao duy nhất, và là Đấng độc lập, trong Ngài mọi sự đầy tràn
và hoàn hảo ngự trị; Ngài là toàn năng, toàn diện và toàn trí; không có ngày bắt
đầu hoặc ngày kết thúc; và trong Ngài, mọi món quà là tốt lành, và mọi ng tắc tốt
đẹp ngự trị; – và Ngài là Cha của ánh sáng: Trong Ngài nguyên tắc đức tin sống
độc lập; và Ngài là đối tượng mà đức tin của tất cả các thực thể khác có lý
trí và trách nhiệm đặt trọng tâm vào, để đạt sự sống và sự cứu rỗi.
3 Để phần trình bày này của chủ đề
được rõ ràng và dễ thấy điểm sáng, chúng ta cần phải đi trở lại và chỉ ra những
bằng chứng mà nhân loại đã có, và nền tảng mà những bằng chứng này đang
hoặc đã đặt lên, kể từ khi tạo dựng, làm cho mọi người đều tin vào có sự tồn
tại của một God.
4 Không kể những bằng chứng hiển
nhiên, thể hiện các công trình sáng tạo, mà chúng ta nhìn thấy hàng ngày bằng
con mắt thiên nhiên: chúng ta đã có nhậy
bén gì sau các mặc khải về Chúa Giêsu Kitô, về các công trình sáng tạo,
trong các hình thể và trạng thái khác nhau rộng lớn của chúng, đã thể hiện sức mạnh vĩnh cửu gì của Ngài
và Thiên chủ Đoàn (Godhead). Romans
1:20: bởi những vật mắt không thấy được, tức là quyền phép đời
đời của Ngài và thiên chủ đoàn, thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ ra đấy.
trừ khi chúng có nghĩa là, một bằng chứng, mà theo đó những ý nghĩ đầu tiên gợi lên trong trí não của loài người
là đã có một God tạo ra tất cả mọi thứ.
[GT: Không kể những bằng chứng vĩ đại vẫn đập vào
mắt chúng ta hằng ngày, bắt chúng ta tìm tòi, truy lùng về ĐCT. Nhưng là những
nhậy bén, những ý nghĩ đầu tiên gợi ra trong trí não chúng ta về sự có một
đấng hóa công: thí dụ, tiếng kêu “trời ơi” hay do truyền thống từ cha sang
con cháu đã được dạy dỗ mà kiến thức ấy đã thấm sâu vào máu chúng ta.]
5 Bây giờ chúng ta sẽ tiến hành xem
xét tình huống của con người trong sự sáng tạo đầu tiên của Ngài. Moses, nhà sử
học, đã cho chúng ta tài khoản sáng tạo sau đây về Ngài trong chương đầu tiên của
sách Sáng Thế, bắt đầu bằng câu 20th
và kết thúc với câu 30th. Chúng tôi sao chép từ bản dịch mới
[GT: Bản dịch Kinh Thánh của chính Joseph Smith.
Viết tắt là “JST” (Joseph Smith translation) chúng ta sẽ gặp và cần sự giúp đỡ
của nó rất nhiều, khi nghiên cứu Bible. Vì ông nói: Bible chỉ là lời của God
khi nó được dịch đúng và hiểu đúng như các vị tiên tri đang hiểu (2Peter
1:20-21)]:
6 Và
Giê hô va phán cùng Con Độc Sanh, Người đã ở với Ngài ngay từ khởi đầu, Chúng ta hãy tạo nên loài người theo hình ảnh ta, theo
hình tượng ta: và điều đó đã được thực hiện.
7 Và Giê hô va phán rằng: Hãy để họ thống trị cá biển, chim trời, súc vật trên khắp
trái đất, và và vật bò trườn trong đất.
8 Vậy, God
đã tạo ra con người theo hình ảnh của chính mình, trong hình ảnh của Con Độc
sanh Ngài, Ngài tạo ra ông; nam và nữ Ngài đã tạo ra họ. Và God chúc lành cho họ,
và God nói với họ, Hãy sinh sôi nảy nở, nhân lên và làm cho đầy trái đất, và
khuất phục nó: và thống trị cá biển, và chim trời và trên mọi sinh vật sống di
chuyển trên trái đất.
9 Và Giê hô Va phán cùng con người, Này, ta đã ban cho ngươi mọi thảo mộc mang hạt giống,
trên mặt đất, và mọi cây trong đó có quả mang hạt giống; với ngươi nó sẽ là thịt.
10 Một lần nữa, Genesis 2:15-17,19-20:
Và Giê hô Va đưa người đàn ông, và vào vườn Địa
đàng, để cày cấy và giữ nó. Và Giê hô va truyền lệnh cho người đàn ông: mỗi cây
trong vườn, ngươi có thể ăn, nhưng cây biết điều thiện và điều ác ngươi sẽ
không ăn nó, ngươi cũng sẽ không chạm vào nó; tuy nhiên, ngươi có thể lựa chọn
cho mình, vì nó được trao cho ngươi; nhưng hãy nhớ rằng ta đã cấm: vì trong
ngày ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ chết.
[GT: ĐCT ban cho Adam quyền tự quyết để biết lựa
chọn điều thiện hoặc ác và cây thiện ác hay luật tương phản (opposition) có
nghĩa: bao lâu ngươi còn ở thể phân chia âm dương, ngươi sẽ chết. Chỉ khi ngươi
ở thể “kết hợp âm dương làm một”, ngươi mới không chết và sống đời đời. Cho
nên, nhờ luật opposition mà con người tiến hóa, nhưng để sống vĩnh hằng, con
người phải ở thể kết hợp làm MộT tức ở thể Thiên Chủ Đoàn (Godhead). Mặt khác, xin để ý, đây là lý do
nhân loại phải giữ luật pháp của ĐCT. Vì khi càng vâng lời, họ càng khôn ngoan.
Thí dụ: luật kết hợp làm một nói lên điều này: 3 người trong Godhead là 3
người riêng biệt, thì mới cần luật kết hợp làm một chứ. Còn nếu 3 người họ đã
là một, như của chữ Trinity, mà nhiều GH đang hiểu, thì còn cần gì phải kết hợp
nữa. Vì họ khác nhau mà kết hợp làm một được thì sự kết hợp mới tính chất thánh
thiện của họ chứ].
11 Và từ đất, Giê hô Va đã nặn ra mọi con thú trên cánh đồng, và chim
trời, và ra lệnh rằng chúng nên được đưa đến Adam, để xem ông sẽ gọi chúng là
gì. Và bất cứ điều gì Adam gọi mọi sinh vật sống, đó sẽ là tên của chúng. Và
Adam đã đặt tên cho tất cả gia súc, và chim trời, và mọi con thú trên cánh đồng.
12 Từ những tài khoản trên, chúng
ta học được tình huống của con người trong sáng tạo đầu tiên của Ngài: – kiến
thức mà ông được ban tặng, và vị trí cao quý và tôn cao mà
ông được đặt vào – đồng thời, Chúa, hay nhà cầm quyền của tất cả mọi thứ
trên trái đất, cùng thời gian đó đã cho ông tận hưởng sự hiệp thông và giao
thoa với Ngài, mà không có sự ngăn cách giữa họ.
Tiếp theo
chúng ta sẽ tiến hành kiểm tra tài khoản về sa ngã và về việc ông bị đuổi ra khỏi vườn Địa
đàng, và ra khỏi sự hiện diện của Chúa.
13 Moses tiếp tục: Và họ [Adam và Eva] đã
nghe thấy tiếng của Giê hô Va khi họ đang đi dạo trong vườn, trong ngày mát
mẻ. Adam và vợ đi trốn khỏi sự hiện diện của Giê hô Va giữa những cây trong
vườn. Và Giê hô Va gọi Adam, và nói chuyện với ông, ngươi ở đâu? Và ông trả lời,
tôi nghe thấy tiếng nói của Ngài trong vườn, và tôi sợ, bởi vì tôi thấy rằng
tôi đang lõa lồ, và tôi ẩn mình.
14 Và Giê hô Va phán cùng Adam, Ai nói với ngươi biết ngươi đang lõa lồ? ngươi đã ăn cây
mà ta đã nói rằng ngươi không nên ăn? Nếu vậy, ngươi chắc chắn sẽ chết? Và
người nam nói, người nữ mà Ngài đã cho tôi và ra lệnh
rằng, cô ấy nên ở lại với tôi, đã cho tôi trái cây và tôi đã ăn.
15 Giê hô Va phán cùng người nữ, ngươi đã làm gì? Và người nữ nói, Con rắn đã lừa tôi và tôi đã ăn.
16 Một lần nữa, Chúa phán cùng người
nữ, ta sẽ nhân gấp bội nỗi buồn phiền của ngươi và
sự thai nghén của ngươi: trong đau đớn ngươi sẽ sinh con cái; và ý muốn của ngươi
sẽ thuộc về chồng ngươi, và hắn sẽ cai trị ngươi.
17 Giê hô Va phán cùng Adam, vì ngươi đã nghe theo tiếng nói của vợ ngươi và đã ăn
trái cây mà ta truyền cho ngươi, rằng: ngươi không ăn nó! Đất sẽ bị nguyền rủa vì ngươi: trong nỗi đau đớn
sẽ theo suốt đời ngươi. Cũng có gai, và cây tật lê sẽ sinh ra cho ngươi: và ngươi sẽ ăn thảo mộc của cánh đồng.
ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi ngươi trở lại đất – chắc
chắn ngươi sẽ chết – từ đất ngươi sinh
ra; do đất mà ngươi có, thì ngươi sẽ trở về đất – Điều này ngay lập tức
được hoàn thành theo sau những gì chúng ta đã nói trước đây: Con người bị đẩy,
hoặc bị đuổi ra khỏi Eden.
[GT: Có 3 điều quan trọng mà câu trên đã phát biểu:
1/ gia đình là quan trọng trong Thiên Chúa Giáo. 2/ Adam bị cám dỗ trước mà
không ăn (1Timothy 2:14). Ông ăn vì luật phải sống có bà bên cạnh để sinh con
cái. Khi ở một mình thì ông chỉ có một sự lựa chọn: hoặc đúng hoặc sai. Nhưng
khi đã vào xã hội thì luôn luôn có trường hợp phải lựa chọn giữa 2 điều đúng (Adam không
ăn thì bà bị đuổi ra khỏi Eden nên ông không giữa được luật sinh con cái. Còn
ăn thì Adam phạm luật vâng lời). Cho nên con người vô phương được giải thoát trước
luật pháp, nếu không có sự Cứu Độ của Thượng Đế. 3/ Con người còn phải giữ luật
kết hợp làm một với Godhead, nên sự bị đuổi ra là kết quả đương nhiên].
18 Hai điều quan trọng được thể hiện
từ các trích dẫn trên đây: Thứ nhất, sau khi con người được tạo ra, ông
không bị bỏ mặc không có trí thông minh (intelligence), hoặc trí sáng
suốt (understanding), đi lang thang trong bóng tối, và tồn tại trong sự ngu
dốt và nghi ngờ – Đây là điểm vĩ đại và
quan trọng tác động đến hạnh phúc của ông – đối với thực tế mà ông được
tạo ra, hoặc ông có thể phải chịu trách nhiệm (amenable) cho hành vi của
mình.
Chúa nói
chuyện trực tiếp với ông mặt đối mặt: trong sự hiện diện của Ngài, ông được
phép đứng lên và từ chính miệng Ngài, ông được phép nhận chỉ thị – ông nghe thấy
tiếng nói của Ngài, đi trước mặt Ngài và nhìn vào vinh quang của Ngài – trong
khi trí thông minh bùng nổ trong sự hiểu biết mình, và đã cho phép ông đặt
tên cho bộ suy tập to lớn các tác phẩm của Đấng Hóa Công của ông.
19 Thứ hai, chúng ta đã thấy rằng,
mặc dù con người đã phạm tội, nhưng sự vi phạm của ông đã không bị tước đi
những kiến thức (knowledge) trước đây mà ông được thiên ân
(endowed), liên quan đến sự tồn tại và vinh quang của Đấng Tạo
Hóa; không lâu sau đó, ông vẫn nghe thấy giọng nói của Ngài, dù ông tìm cách
che dấu bản thân khỏi sự hiện diện của Ngài.
20 Sau đó, ngay trong phút đầu
tiên, God bắt đầu trò chuyện với con người, ngay sau khi ông "hít hơi thở
của sự sống vào lỗ mũi ", và Ngài đã không ngừng tỏ mình với ông, ngay cả
sau khi ông sa ngã. Tiếp theo chúng ta sẽ tiếp tục chỉ ra rằng, mặc dù ông bị
đuổi ra khỏi vườn Địa đàng, nhưng kiến thức về sự tồn tại của God không bị mất,
God cũng không ngừng biểu lộ ý muốn của Ngài cho ông.
[GT: Linh hồn (spirit) là hơi thở của sự sống.
cũng là định nghĩa của Chúa Thánh Linh là sự sống. Vậy một bào thai khi có linh
hồn nhập vào là lúc nó có sự máy động].
21 Chúng ta tiếp tục trình bày tài
khoản về sự mặc khải trực tiếp mà con người nhận được, sau khi ông bị đuổi ra
khỏi Eden, và các sao chép này đến từ bản dịch mới:
22 Sau khi Adam bị đuổi ra khỏi vườn,
ông bắt đầu cày cấy đất, và có quyền thống trị trên tất cả các thú trên cánh đồng,
và ăn bánh do mồ hôi trán của ông, như Ta, là Chúa đã truyền lệnh cho ông: và
ông đã kêu cầu danh Chúa, và vợ ông cũng vậy. Và họ nghe thấy tiếng Chúa từ hướng
vườn Địa đàng, nói với họ; và họ không thấy Ngài, vì họ đã bị loại ra khỏi sự
hiện diện của Ngài: nhưng Ngài đã đưa
cho họ những điều răn là họ nên thờ phượng Chúa, God của họ, và nên dâng lên những
con đầu lòng trong đàn súc vật của họ để làm của lễ dâng lên Chúa. Và Adam đã
vâng lời điều răn này.
23 Sau
nhiều ngày, một thiên thần của Chúa hiện ra với Adam, nói rằng, tại sao ngươi lại
dâng lên Chúa của lễ hy tế? Và Adam nói với Ngài, tôi không biết; nhưng Chúa
truyền lệnh cho tôi dâng của lễ hy tế.
[GT: trở nên trẻ nhỏ là ngay cả khi không hiểu hết
ý nghĩa của lệnh truyền, chúng ta vẫn phải vâng lời].
24 Thiên sứ nói với ông, Điều này là một sự mô phỏng về sự hy sinh của Con Độc
Sanh của Cha, người đầy ân sủng và sự thật. Và ngươi sẽ làm tất cả những gì
ngươi làm nhân danh ĐChúa Con: và ngươi phải ăn năn và kêu cầu Chúa nhân danh
Ngài mãi mãi. Vào ngày đó, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Ađam và làm chứng
về Chúa Cha và Chúa Con.
25 Trích dẫn hay tóm tắt cuối cùng
này cho thấy một thực tế quan trọng là, mặc dù cha mẹ đầu tiên của chúng ta đã bị đuổi ra khỏi
vườn Eden, và thậm chí bị ra khỏi sự hiện diện của Chúa, qua một tấm màn, họ vẫn
giữ được kiến thức về sự tồn tại của mình, và điều đó đủ để di chuyển
họ đến sự cầu nguyện lên Ngài. Và hơn nữa, không lâu sau đó kế hoạch
cứu chuộc được tiết lộ cho loài người, và ông bắt đầu kêu cầu lên Chúa, hơn
nữa Chúa Thánh Thần được ban cho họ, để làm chứng về Chúa Cha và Chúa
Con.
[GT: Có 2 Thánh Linh: TL Đức Ki Tô là ánh sáng
soi trong đầu của bạn (John 1:5). Và Đức Thánh Linh (Holy Ghost hay Holy
Spirit) là một người trong Godhead. Ngài làm chứng và là cảm giác (nói) trong
tim bạn (Luke 24:32). Tại sao công việc của Đức Thánh Linh chỉ là làm chứng về
ĐCCha và ĐCCon? – Bởi vì Ngài là Thần Sự Thật (John 14:17). Sự thật thì làm chứng
cho sự thật. Và khi chúng ta đã nhận được cảm giác làm chứng của Ngài về một sự
thật nào, mà còn cứng cổ chối bỏ thì tội ấy không được tha thứ là vì vậy].
26 Môi-se cũng cho chúng ta một tường
thuật, trong chương 4 của Sáng thế ký, về sự vi phạm của Cain, và sự công bình
của Abel, và những điều mặc khải của God đối với họ. Ông nói: Trong thời gian Cain mang trái cây của đất, làm lễ vật
dâng lên Chúa. Và Abel cũng mang theo những con vật đầu lòng trong đàn và mỡ của
chúng. Và Chúa đã tôn trọng Abel, và của lễ của ông: nhưng đối với Cain và của
lễ của ông, Ngài đã không tôn trọng. Bấy giờ satan biết điều này, và nó làm hài
lòng ông. Và Cain đã rất tức giận, và vẻ mặt của ông xụ xuống.
[GT: Điều này nói lên chúng ta phải giữ luật pháp
đúng như ý Chúa, không được cắt nghĩa sai đi. Thí dụ: Chúa cấm sự đồng tính và
bói toán tà thuật mà loài người đang giải sai ý nghĩa đi như hiện nay.]
Và Chúa nói
với Cain, Tại sao ngươi tức giận? Tại sao diện mạo
của ngươi gằm xuống? Nếu ngươi làm lành, người sẽ không được chấp nhận sao? Và
nếu ngươi không tốt, thì tội lỗi nằm ở cửa và satan mong muốn có ngươi; và ngoại
trừ ngươi sẽ nghe theo các điều răn của ta, ta sẽ đưa ngươi lên: và nó sẽ thèm
ngươi lắm đó.
27 Và
Cain đi ra đồng và nói chuyện với em trai Abel. Và trong khi họ ở trên cánh đồng,
Cain đã đứng lên chống lại em trai Abel của mình và giết anh ta. Và Cain vinh
quang trong những gì ông đã làm, nói rằng, tôi tự do! chắc chắn đàn súc vật của
em tôi sẽ rơi vào tay tôi.
[GT: Cain giết em, ông tưởng rằng như thế ông đã
thoát khỏi vòng cương tỏa của God và các lệnh truyền của Ngài? Vì ông giao ước với Satan là không tỏ ra cho
ai hay. Không ngờ, Chúa biết mọi sự, kể cả ý nghĩ trong lòng ông. Do đó, sự
công bình là con người phải nô lệ God để họ học sự khôn ngoan (wisdom). Hay nói
cách Joseph Smith: Khi con người học hỏi về God, họ khám phá chính họ. Chứ
không chỉ cậy vào trái cấm như bà Eva nghĩ khi bị cám dỗ].
28 Nhưng Chúa phán cùng Cain, Abel em người ở đâu? Và ông nói, tôi không biết: tôi có phải là người giữ em trai tôi
không? Và Chúa nói, ngươi đã làm gì? Tiếng
nói của máu em người kêu lên ta từ đất. Và bây giờ, ngươi sẽ bị nguyền rủa từ đất,
vì đất đã mở miệng để nhận máu của em ngươi, từ tay ngươi. Khi ngươi cày đất, Đất
sẽ không mang lại cho ngươi sức mạnh của nàng, ngươi cũng sẽ ở trên trái đất
như một kẻ chạy trốn và lang thang.
[GT: tại sao Đất không mang sức mạnh của nàng cho
người tội lỗi? Tại sao Cain phải là một kẻ chạy trốn và lang thang? – tất cả là
sự quan trọng mà vì Cain mất thể kết hợp godhead “thiên-địa-nhân”].
29 Và Cain nói với Chúa, Sa-tan cám dỗ tôi vì đàn chiên của em tôi. Và tôi cũng tức
giận: vì của lễ của hắn đã được chấp nhận, mà của lễ của tôi thì không: Hình phạt
của tôi lớn hơn tôi có thể chịu được. Nầy, Ngài đã đuổi tôi ngày hôm nay ra khỏi
mặt của loài người, và tôi cũng sẽ đi trốn khỏi mặt của Ngài;
Và
tôi sẽ là một kẻ chạy trốn và một kẻ lang thang trên đất; và chuyện sẽ đến, mọi
người tìm thấy tôi sẽ giết tôi, vì lời thề của tôi; vì những điều này không được
giấu khỏi Chúa. Và Chúa nói với ông, vì vậy, bất cứ ai giết Cain, sự báo
thù trên người ấy sẽ được nhân lên bảy lần. Và Chúa đã đánh dấu trên Cain, kẻo bất kỳ ai tìm thấy ông sẽ
giết ông.
[GT: Zion là nơi qui tụ những người có tâm hồn
thanh khiết, nên người vào Zion phải giương cao lá cờ hòa bình và tôn trọng luật
pháp của cả Chúa và xứ sở. Vả. sự trả thù không chỉ hiểu theo nghĩa lấy máu trả
máu, mà còn hiểu cao hơn như gieo gì gặt nấy (Gal 6:7) không nói xấu lại ai
(1Thes 5:15; 1Peter 2:23).Khi bị bách hại,
sự trả thù hay không trả thù và khi nào được trả thù, chúa dạy trong
(Roma 12:16, DC 98)].
30 Đối tượng của các trích dẫn nói
trên chỉ ra cho lớp học này, cách mà loài người lần đầu tiên được làm quen với sự
tồn tại của một God: – đó là bởi biểu
hiện của God (manifestation trong vườn Eden) đối với con người (Adam), và God
tiếp tục, sau khi con người phạm tội (ngoài vườn Eden) để biểu lộ chính Ngài
cho ông và hậu duệ ông: và (sau đó) mặc dù họ bị tách khỏi sự hiện diện ngay lập
tức của Ngài, họ không thể nhìn thấy mặt của Ngài, họ tiếp tục nghe thấy tiếng
nói của Ngài.
31 Vì thế, Adam làm quen với
God, truyền đạt những kiến thức mà ông có được cho con cháu; và qua điều
này có nghĩa là: ý
nghĩ đầu tiên được gợi ý cho tâm trí họ rằng đã có một God. Điều này đặt nền tảng cho việc thực
tập đức tin của họ, từ đó họ có
thể có được kiến thức về cá tính của
Ngài và cả về vinh quang của
Ngài nữa.
32 Không chỉ là có một sự biểu hiện
cho Adam về sự tồn tại của một God,
mà Moses còn thông báo cho chúng ta, qua các trích dẫn trên, God đã xuống nói
chuyện với Cain sau khi ông phạm tội lớn, là giết chết em trai mình, và Cain biết
rằng đó là Chúa đang nói chuyện với ông: để khi ông bị đuổi ra khỏi sự hiện diện
của anh em mình, ông mang theo kiến thức về sự tồn tại của một God: và thông
qua điều này, không nghi ngờ gì, hậu duệ của ông đã làm quen với sự thật có một
Đấng như thế đang tồn tại.
33 Từ điều này chúng ta có thể thấy
rằng toàn bộ gia đình nhân loại, trong thời kỳ đầu của họ, trong tất cả các
nhánh khác nhau, đã có kiến thức phổ biến trong họ; về sự tồn tại của God trở thành một
đối tượng của đức tin, trong thời kỳ đầu của thế giới.
Và những bằng chứng mà loài người biết về sự tồn tại của một God, là lời chứng của cha ông họ từ những
ngày đầu tiên.
34 Lý do tại sao chúng ta có phần học
đặc biệt như vậy về phần chủ đề này, là, sự học này đã cho thấy điều God đã trở thành một đối tượng đức tin
giữa loài người sau khi sa ngã; và điều đó khuấy động đức tin của
nhiều người sau hắn cảm thấy cần tìm kiếm kiến thức về cá tính,
sự hoàn hảo và thuộc tính của Ngài, cho đến khi họ trở nên rất quen
thuộc với Ngài; và không chỉ giao du với Ngài, và nhìn thấy vinh
quang của Ngài, mà còn là những người tham gia vào quyền lực của
Ngài, là người đứng trong sự hiện diện của Ngài.
35 Hãy để lớp học này nói lên điều
đặc biệt là lời chứng (testimony) mà những người
này có về sự tồn tại của một God, là lời
chứng của con người; vì trước đây, bất kỳ hậu thế nào của Adam cũng có
được sự thể hiện của God đối với chính họ, Adam, người cha chung của họ đã làm
chứng cho họ về sự tồn tại của God, và quyền năng vĩnh cửu và thiên chủ đoàn của
Ngài.
[GT: sự học về God Ngài là theo lời chứng
(testimony) hay làm nhân chứng (witness ) những gì God đã biểu thị, trên họ (manifest), chứ theo kiểu loài người
là theo lớp thần học]
36 Chẳng hạn, Abel, trước khi ông
nhận được sự bảo đảm từ thiên thượng rằng các lễ vật của ông được Chúa chấp nhận,
đã nhận được thông tin quan trọng của cha ông, về một thực thể như vậy đã tồn tại,
Ngài đã tạo ra và là người duy trì mọi thứ.
Không ai có
thể có một nghi ngờ sự tồn tại trong tâm trí của bất kỳ ai, Adam là người đầu
tiên truyền đạt kiến thức về sự tồn tại của một God, cho hậu thế của mình;
và toàn bộ
niềm tin của thế giới, từ thời điểm đó cho đến hiện tại, ở một mức độ nhất định,
phụ thuộc vào kiến thức được truyền đạt trước tiên cho họ bởi tổ tiên chung của
họ;
và nó đã được
lưu truyền cho đến ngày và thế hệ chúng ta đang sống, như chúng ta sẽ chỉ ra
trên mặt hồ sơ thiêng liêng này.
37 Đầu tiên, Adam được 130 tuổi khi
Seth được sinh ra. (Genesis
5:3) Và sau đó ông sống thêm 800 năm nữa , sau khi ông sinh Seth; ông thọ
930 tuổi khi chết (Genesis
5:4-5). Seth 105 tuổi thì sinh ra Enos. (v.6);
Enos 90 tuổi khi sinh ra Cainan (v.9);
Cainan 70 tuổi khi sinh Mahalaleel (v.12); Mahalaleel
65 tuổi khi sình Jared (v.15);
Jared 162 khi sinh ra Enoch (v.18);
Enoch 65 tuổi khi Methuselah sinh ra. (v.21);
Methuselah là 187 khi Lamech sinh ra. (v.25);
Lamech là 182 khi Nô-ê sinh ra (v.28).
38 Từ tài khoản này, có vẻ như
Lamech, người thứ 9 từ Adam và cha của Nô-ê, đã 56 tuổi khi Adam qua đời;
Methuselah 243 tuổi; Enoch 308 tuổi; Jared 470; Mahalaleel 535; Cainan 605;
Enos 695; và Seth 800.
39 Vì vậy, Lamech, cha của Nô-ê;
Methuselah, Enoch, Jared, Mahalaleel, Cainan, Enoch, Seth và Adam, tất cả đều sống
cùng một lúc, và vượt lên trên mọi tranh cãi, đều là những người thuyết giảng về
sự công bình.
[GT: từ Lamech đến Adam là 8 đời. Còn Noah thì nhận
được kiến thức về God của 9 đời tổ phụ công bình của ông]
40 Moses thông báo thêm cho chúng
ta, rằng Seth đã sống (thêm) 807 năm, sau khi ông sinh Enos; Ông thọ 912 tuổi khi chết (Genesis
5:7-8). Và Enos đã sống (thêm) 815 tuổi sau khi sinh ra Cainan: ông thọ 905 tuổi khi chết (vv.10-11.)
Và Cainan sống (thêm) 840 tuổi sau sinh ra Mahalaleel: ông thọ 910 tuổi khi chết
(vv.13-14.) Và Mahalaleel sống (thêm) 830 tuổi, sau sinh ra
Jared: ông thọ 895 tuổi khi chết (vv.16-17) . Và Jared 800 tuổi (thêm), sau sinh Enoch: ông
thọ 962 tuổi khi chết (vv.19-20.) Và Enoch đã đi với Chúa, 300 tuổi ông sinh
Methuselah: ông 365 tuổi khi ông ta biến thể (vv.22-23.) Và Methuselah sống (thêm) 782 tuổi sinh ra
Lamech: ông thọ 969 tuổi khi chết (vv.26-27.) Lamech sống
(thêm) 595 tuổi, sau sinh Nô-ê; ông thọ 777 tuổi khi qua đời (vv.30-31.)
41 Với tài khoản này, Adam đã chết
vào năm thứ 930 của thế giới, Enoch được
biến thể vào năm 987, Seth chết vào năm 1042, Enos vào năm 1140, Cainan vào
năm 1235, Mahalaleel vào năm 1290, Jared vào năm 1422 vào năm 1651 và
Methuselah vào năm 1656, đó cũng là năm mà trận lụt xảy ra.
42 Vì vậy, Nô-ê đã 84 tuổi khi Enos
chết, 176 khi Cainan chết, 234 khi Mahalaleel chết, 366 khi Jared chết, 595 khi
Lamech chết, và 600 khi Methuselah chết.
43 Chúng ta có thể thấy rằng Enos,
Cainan, Mahalaleel, Jared, Methuselah, Lamach và Noah đều sống cùng lúc trên
trái đất, và Enos, Cainan, Mahalaleel, Jared, Methuselah và Lamech, đều quen
thuộc với cả Adam và Nô-ê.
44 Từ những điều đã nói ở trên có
thể dễ dàng nhận thấy, không chỉ kiến thức về God đi vào thế giới, mà dựa
trên nguyên tắc nào nó được bảo tồn:
từ khi nó được
truyền đạt lần đầu tiên, nó đã được giữ lại trong tâm trí của những người đàn
ông công chính, người đã dạy, không chỉ hậu thế của riêng họ, mà cả thế giới;
để không cần
phải có sự mặc khải mới (revelation) cho con người, sau khi tạo ra Adam,
cho đến Nô-ê, để cho họ ý tưởng (idea) đầu tiên, hoặc ý niệm (notion) về sự tồn
tại của một God: và không
chỉ về một God, mà còn về God chân thực và sống động .
[GT: Kiến thức về God được củng cố 9 lần nghĩa là
3 lần thế chân vạc]
45 Đã lần theo dấu vết niên đại của
thế giới từ A-đam đến Nô-ê, bây giờ chúng ta sẽ lần theo dấu vết từ Nô-ê đến
Áp-ra-ham: Nô-ê đã 502 tuổi sinh Shem: 98 năm sau trận lụt, là năm thứ 600 của
tuổi Nô-ê. Và Moses cho chúng ta biết rằng Nô-ê đã sống sau trận lụt, 350 năm:
làm cho ông thọ 950 tuổi khi chết. (Genesis 9:28-29.)
46 Shem đã 100 tuổi khi Arphaxed ra
đời. (Genesis 11:10.) Arphaxed là 35 khi Salah được sinh ra (11:12);
Salah 30 tuổi khi Eber chào đời (11:14);
Eber 34 tuổi khi sinh ra Peleg: vào thời đó trái đất bị chia cắt (11:16);
Peleg 30 tuổi khi Reu được sinh ra (11:18);
Reu 32 tuổi khi Serug được sinh ra (11:20);
Serug 30 tuổi khi Nahor được sinh ra (11:22);
Nahor 29 tuổi khi Terah được sinh ra (11:24);
Terah đã 70 tuổi khi Haran và Áp-ra-ham ra đời (11:26).
47 Có một số khó khăn về sự ra đời
của Áp-ra-ham trong tài khoản được đưa ra bởi Môi-se. Một số người cho rằng, Áp-ra-ham không được sinh
ra cho đến khi Terah 130 tuổi. Kết luận này được rút ra từ nhiều Thánh
Thư, hiện không nhằm mục đích của chúng ta để trích dẫn.
[GT: Moses đưa ra 2 ngày sinh của Abraham: 1/ khi
Terah 70 tuổi (Gen 11:26). 2/ Terah qua đời (Acts 7:4) thì Abraham mới rời
Haran. Lúc này Abraham 75 tuổi (Gen 12:4), nghĩa là Terah sinh Abraham lúc
205-75=130 tuổi.
Nhưng theo sách Abraham 2:14 Terah
qua đời thì Abraham mới 62 tuổi. nghĩa là Abraham phải sinh sớm hơn. Tuy nhiên,
xuống câu hỏi 85 và 86 bên dưới. JS đã để Terah sinh Nahor ỏ tuổi 70 và Còn
Abraham được sinh ra ở tuổi 130 của ông.
Theo tôi, ở đây sở dĩ ĐCT cho Moses
đưa ra 2 tài khoản về Abraham, là để nhân loại phải 1/ học sự thông thái
(wisdom) của God. 2/ trên đường về Đất Hứa, mọi người phải học bài học của
Abraham, Isaac, Jacob (ĐCT là God của 3 người này, Matt 22:31-33), nghĩa là phải mang theo tổ tiên trong hành
trang của mình (Gen 10:32). 3/họ phải có óc xét đoán theo kiểu “chó liếm nước”,
chứ không phải theo kiểu “ăn không nhai, nuốt trửng” (Judges 7:5-6) 4/ Họ phải viết gia phả. Cuốn sách mà Samuel
viết ra trước mặt Israel và để trước mặt Chúa là cuốn kinh thánh hay gia phả của
mỗi người (1Sam 10:25) để truyền đạt ý tưởng của mình cho con cháu].
Không có vấn
đề hay hậu quả gì đối với chúng ta, dù Áp-ra-ham được sinh ra khi Terah 70 tuổi,
hay 130.
Nhưng để có
thể không có nghi ngờ gì tồn tại trên bất kỳ tâm trí nào, liên quan đến đối tượng
nằm ngay trước chúng ta, khi trình bày niên đại hiện tại, chúng ta sẽ lấy với sự ra đời của Áp-ra-ham
vào thời kỳ muộn nhất: đó là khi Terah 130 tuổi. Tài khoản này (Gen 11:10-11)
xuất hiện nói rằng từ trận lụt đến khi sinh ra Áp-ra-ham là 352 năm.
[GT: 2 năm cách biệt là do sự hiểu biết khác nhau
về Gen 11:10-11].
48 Moses thông báo cho chúng ta rằng
Shem sau khi sinh ra Arphaxed, còn sống thêm 500 năm, (11:11);
Điều này thêm vào 100 năm, vào tuổi của ông, khi Arphaxed được sinh ra, khiến
ông thọ 600 tuổi khi qua đời.
Arphaxed 403
tuổi, sau khi sinh ra Salah (11:13);
Điều này thêm vào 35 năm, vào tuổi của ông khi sinh ra Salah, khiến ông thọ 438
tuổi khi qua đời.
Salah sống
thêm 403 tuổi, sinh Eber (11:15);
Điều này thêm vào 30 năm, đó là tuổi của ông, khi sinh ra Eber, ông thọ 433 tuổi
khi qua đời.
Eber 430 tuổi,
sinh ra Peleg (11:15);
Điều này thêm vào 34 năm, đó là tuổi của ông ấy khi Peleg được sinh ra, khiến
ông thọ 464 tuổi.
Peleg sống,
ông sinh ra Reu, năm 209 tuổi (11:19);
Điều này thêm vào 30 năm tuổi của ông ấy khi Reu được sinh ra, làm cho ông thọ
239 tuổi khi chết.
Reu sống 207
tuổi, sau khi sinh Serug (11:21); Điều này thêm vào 32 năm vào tuổi của ông ấy
khi Serug được sinh ra, làm cho ông ấy thọ 239 tuổi khi chết.
Serug sống
200 năm, sau khi ông sinh Nahor (11:23);
Điều này thêm vào 30 năm, đó là tuổi của Nahor được sinh ra, khiến ông 230 tuổi
khi ông qua đời.
Nahor sống
119 tuổi, sau sinh Terah (11:25);
Điều này thêm vào 29 năm, đó là tuổi của ông ấy khi Terah được sinh ra, khiến
ông ấy thọ 148 tuổi khi chết.
Terah đã 130
tuổi khi Áp-ra-ham ra đời và được cho là đã thêm 75 năm vào tuổi đời của ông:
khiến ông thọ 205 tuổi khi ông qua đời.
49 Chấp nhận với tài khoản cuối
cùng này, Peleg đã chết vào năm thứ 1996 của thế giới. Nahor vào năm thứ 1997
và Nô-ê vào năm thứ 2006. Vì vậy, trong thời Peleg, thì trái đất bị chia cắt,
và Nahor, ông nội của Áp-ra-ham, cả Peler và Nahor đều chết trước Nô-ê: người
trước là 239 tuổi, và người sau là 148. Và không một ai (GT: trong 9 người từ Shem đến Terah) không
thể nhìn thấy, quen thuộc lâu dài và
thân mật với Nô-ê?
50 Reu chết vào năm thứ 2026 trên
thế giới, Serug vào năm thứ 2049, Terah vào năm thứ 2083, Arphaxed vào năm thứ
2096, Salah vào năm thứ 2126, Shem vào năm thứ 2158, Abraham ở thứ 2183 và Eber
vào năm 2187, (Eber chết) 4 năm sau cái chết của Áp-ra-ham. Và Eber là đời thứ
tư từ Nô-ê.
51 Nahor,anh trai (ông nội) của Abraham, là 58 (158= 350-35-30-34-30-32-30) tuổi khi Nô
e chết, Terah 128, Serug 187, Reu 219,
Eber 283, Salah 313, Arphaxed 344, and Shem 448.
52 Điều xuất hiện từ tài khoản này,
là Nahor, anh trai (ông nội) của Áp-ra-ham, Terah, Nahor, Serug, Reu, Peleg,
Eber, Salah, Arphaxed, Shem và Noah, tất cả đều sống trên trái đất cùng một lúc.
Và là
Áp-ra-ham đã 18 tuổi khi Reu chết, – 41
khi Serug và em (cháu trai) của
ông là anh trai Nahor chết, – 75 khi Terah chết, – 88 khi Arphaxed chết, – 118 khi Salah chết, –
150 khi Shem chết, – và Eber sống 4 năm sau khi Áp-ra-ham chết.
Và Shem,
Arphaxed, Salah, Eber, Reu, Serug, Terah, và Nahor, anh trai của Áp-ra-ham và
Áp-ra-ham, đã sống cùng một lúc. Và là Nahor, anh trai (ông nội) của Áp-ra-ham, Terah, Serug,
Reu, Eber, Salah, Arphaxed và Shem, đều quen thuộc với cả Nô-ê và Áp-ra-ham.
53 Bây giờ chúng ta đã lần theo
niên đại của thế giới, một cách dễ chịu với tài khoản được đưa ra trong kinh
thánh hiện tại của chúng ta, từ Ađam đến Áp-ra-ham, và đã xác định rõ ràng, vượt
xa quyền năng của tranh cãi, không có khó khăn gì trong việc bảo tồn kiến thức
về God trong thế giới, từ ngày sáng tạo ra Adam, và biểu lộ xuống con cháu trực
hệ của mình, như được nêu trong phần trước của bài giảng này,
Cho nên các học viên, trong lớp học này không cần
phải có bất kỳ sự nghi ngờ nào trong tâm trí họ, về chủ đề này; vì họ có thể dễ
dàng thấy rằng nó không thể nào (hiểu) khác được; nhưng kiến thức về sự tồn tại của một God, phải tiếp tục từ cha sang con, ít nhất như một vấn đề của truyền thống.
Vì chúng ta không thể cho rằng, một kiến
thức về sự thật quan trọng này, có thể tồn tại trong tâm trí của bất kỳ cá
nhân nào được đề cập trước hắn, mà không cần biết đến hậu thế của hắn.
54 Bây giờ chúng ta đã chỉ ra là, ý
nghĩ đầu tiên tồn tại trong tâm trí của bất kỳ cá nhân nào, là đã có một God,
người đã tạo ra và duy trì tất cả mọi thứ:
đó là lý do
của sự hiện ra (manifestation) mà Ngài đã thực hiện trước nhất cho cha Adam của
chúng ta, khi ông đứng trước mặt Ngài, và trò chuyện trực tiếp với Ngài, tại thời
điểm ông được tạo ra.
55 Chúng ta hãy quan sát, thấy rằng
sau khi bất kỳ phần nào của gia đình nhân loại đã được làm quen với thực tế
quan trọng là có một
God đã tạo ra và duy trì mọi vật, mức độ hiểu biết của họ, sự tôn
trọng cá tính và vinh quang của Ngài, sẽ phụ thuộc vào sự siêng năng và trung
thành của họ trong việc tìm kiếm Ngài, cho đến khi, như Enoch, anh
trai của Jared và Moses, họ sẽ có được đức tin vào God, và vào quyền lực của
Ngài để nhìn thấy Ngài mặt đối mặt.
[GT: câu “như Enoch, anh trai của Jared
và Moses” là 3 người được biến thể (translated, không chết cho đến khi 2nd
Coming xẩy ra), JS không viết theo nghĩa đen ở đây. 3 người này là 3 thời đại
khác nhau. JS nói nghĩa nhấn mạnh là khi Sion trên trời của Enoch, đến hiệp
cùng họ vào ngày 2nd coming].
56 Bây giờ câu trả lời của chúng ta
đã ra rõ ràng, tại sao nó là và đã là, Chúa trở thành một đối tượng của đức tin cho những sinh vật
có lý trí; và cũng dựa trên nền tảng của lời
chứng, điều này đã kích thích sự điều tra và truy tìm siêng năng của các vị
thánh thời xưa, để tìm kiếm và có được kiến thức về vinh quang của
God: và chúng ta đã thấy rằng đó là lời chứng của con người và chỉ là lời chứng của con người, đã kích
thích cuộc điều tra này, trong khoẳng khắc đầu tiên trong tâm trí của họ
— đó là tín ngưỡng (credence) mà họ đã có đối với lời chứng của cha họ—lời
chứng này đã khơi dậy tâm trí của họ để tìm kiếm sự hiểu biết về God,
cuộc điều
tra này thường xuyên sẽ chấm dứt, thực sự, luôn luôn chấm dứt , khi nó đã ngủ yên một cách công chính, trên những khám phá vinh quang nhất,
và sự chắc chắn của vĩnh cửu
Câu hỏi và trả lời các
nguyên tắc của bài học bên trên.
Câu hỏi 2: Ai vậy?
Trả lời: Đó là ĐCT. [GT: Ở bài học trước, chúng ta đã học ĐCT làm mọi chuyện bằng quyền năng của Faith. Muốn vậy, ĐCCha phải có Faith độc lập với bản thân Ngài. Còn Jesus và chúng ta thì Faith đặt trên ĐCCha. Cho nên, ngay cả khi Jesus đã tiến hóa và trở nên trọn vẹn như Cha “ai thấy ta là thấy Cha” Ngài vẫn nói “Cha trọng hơn ta”]
Trả lời: Đó là ĐCT. [GT: Ở bài học trước, chúng ta đã học ĐCT làm mọi chuyện bằng quyền năng của Faith. Muốn vậy, ĐCCha phải có Faith độc lập với bản thân Ngài. Còn Jesus và chúng ta thì Faith đặt trên ĐCCha. Cho nên, ngay cả khi Jesus đã tiến hóa và trở nên trọn vẹn như Cha “ai thấy ta là thấy Cha” Ngài vẫn nói “Cha trọng hơn ta”]
Câu hỏi 3: Làm thế nào để chứng minh rằng ĐCT có niềm tin vào
chính mình Ngài một
cách độc lập?
Trả lời: Bởi vì Ngài toàn năng, toàn diện và toàn trí; không bắt đầu ngày hay kết thúc, và trong Ngài tất cả sự ưu việt ngự trị Eph. 1:23: Hội thánh là thân thể của Đấng Christ, tức là sự đầy đủ của Đấng gồm tóm mọi sự trong mọi loài. Col. 1:19: Vì chưng Đức Chúa Cha đã vui lòng khiến mọi sự đầy dẫy của mình chứa trong Ngài,(2:12)
Trả lời: Bởi vì Ngài toàn năng, toàn diện và toàn trí; không bắt đầu ngày hay kết thúc, và trong Ngài tất cả sự ưu việt ngự trị Eph. 1:23: Hội thánh là thân thể của Đấng Christ, tức là sự đầy đủ của Đấng gồm tóm mọi sự trong mọi loài. Col. 1:19: Vì chưng Đức Chúa Cha đã vui lòng khiến mọi sự đầy dẫy của mình chứa trong Ngài,(2:12)
Câu hỏi 4: ĐCCha có phải là đối tượng mà đức tin của tất
cả các thực thể khác có
lý trí và trách nhiệm, đặt
trọng tâm vào cho sự sống
và sự cứu rỗi không?
Trả lời: đúng vậy.
Trả lời: đúng vậy.
Câu hỏi 5: Làm thế nào để bạn
chứng minh điều đó?
Trả lời: Isa. 45:22: Hỡi các ngươi hết thảy ở các nơi đầu cùng đất, hãy nhìn xem ta và được cứu! Vì ta là Đức Chúa Trời, chẳng có Chúa nào khác.
Trả lời: Isa. 45:22: Hỡi các ngươi hết thảy ở các nơi đầu cùng đất, hãy nhìn xem ta và được cứu! Vì ta là Đức Chúa Trời, chẳng có Chúa nào khác.
Romans 11:34-36: 34 Vì, ai biết ý tưởng Chúa, ai là
kẻ bàn luận của Ngài? 35 Hay là ai đã cho
Chúa trước, đặng nhận lấy điều gì Ngài báo lại? 36 Vì muôn vật đều là
từ Ngài, và hướng về Ngài. Vinh hiển cho Ngài đời đời, vô cùng! A-men.
Ê-sai 40:9-18 : 9
Ai rao tin lành cho Si-ôn, hãy lên trên núi cao: Ai
rao tin lành cho Giê-ru-sa-lem, hãy ra sức cất tiếng lên! Hãy cất tiếng lên, đừng
sợ! Hãy bảo các thành của Giu-đa rằng: Đức Chúa Trời của các ngươi đây! 10 Nầy, Chúa Giê-hô-va
sẽ lấy quyền năng mà đến; Ngài dùng cánh tay mình và cai trị. Nầy, sự ban thưởng
Ngài ở nơi Ngài, sự báo trả Ngài ở trước mặt Ngài. 11 Ngài sẽ chăn bầy
mình như người chăn chiên: thâu các con chiên con vào cánh tay mình và ẵm vào
lòng, và từ từ dắt các chiên mẹ và chiên con.
12 Ai đã lấy lòng bàn tay mà lường biển,
lấy gang tay mà đo các từng trời? Ai đã lấy đấu mà đong bụi đất? Ai đã dùng cân
mà cân núi, và dùng thăng bằng mà cân gò? 13 Ai lường được Thần
của Đức Chúa Trời, và làm mưu sĩ Ngài, đặng dạy Ngài điều gì? 14 Nào Ngài đã bàn luận
với ai? Ai đã dạy khôn cho Ngài và dạy Ngài đường công nghĩa? Nào ai đã đem sự
thông biết dạy Ngài và chỉ cho Ngài lối khôn ngoan? 15 Kìa, các dân tộc
khác nào một giọt nước nhỏ trong thùng, và kể như là một mảy bụi rơi trên cân;
nầy, Ngài giở các cù lao lên như đồi vật nhỏ. 16 Rừng
Li-ban chẳng đủ đốt lửa, những thú vật ở đó chẳng đủ làm của lễ thiêu. 17 Mọi dân tộc ở trước
mặt Đức Giê-hô-va thảy đều như không, Ngài xem như trống không và hư vô vậy.
Jeremiah 51:15-16: 15 Ngài (the Lord) Chính Ngài là Đấng đã lấy quyền năng mình
dựng nên đất, lấy sự khôn ngoan mình (wisdom) lập
thành thế gian, lấy sự sáng suốt mình (understanding) giương
các từng trời ra. 16 Nghe tiếng Ngài, những nước trong các từng trời om sòm.
Ngài khiến hơi nước lên từ các đầu cùng đất, khiến chớp theo mưa, từ trong kho
tàng mình phát ra gió.
1
Corinthians 8:6:
về phần
chúng ta, chỉ có một Đức Chúa Trời mà thôi, là Đức Chúa Cha, muôn vật bởi Ngài
mà ra, và chúng ta hướng về Ngài; lại chỉ có một Chúa mà thôi, là Đức Chúa
Jêsus Christ, muôn vật đều nhờ Ngài mà có, và chúng ta cũng vậy. (2:12).
Câu hỏi 6: Làm thế nào mà
con người lần đầu tiên cần
hiểu biết đến sự tồn tại của một ĐCT, để thực hiện đức tin vào Ngài?
Trả lời: Để trả lời câu hỏi này, cần phải quay lại và kiểm tra con người theo sự sáng tạo của Ngài; hoàn cảnh hắn được đặt vào, và kiến thức mà hắn có về ĐCT. (2:3-11).
Trả lời: Để trả lời câu hỏi này, cần phải quay lại và kiểm tra con người theo sự sáng tạo của Ngài; hoàn cảnh hắn được đặt vào, và kiến thức mà hắn có về ĐCT. (2:3-11).
Đầu tiên, khi con người được tạo ra, ông đứng trong sự hiện diện của
ĐCT (Genesis
1:27-28.) Từ đó chúng ta biết rằng con người, trong sự sáng
tạo của mình, đứng trước sự hiện diện của ĐCT và có kiến thức hoàn hảo nhất về sự tồn tại của Ngài.
Thứ hai, ĐCT đã nói chuyện với ông sau khi ông phạm tội. (Genesis
3: from the 8th to the 22nd; 2:13-17)
Từ điều này chúng ta học được rằng, mặc dù con người đã
phạm tội, ông không bị
tước đi những kiến thức trước đây mà ông có về sự tồn tại của ĐCT. (2:19).
Thứ tư, ĐCT cũng trò chuyện với Cain sau khi hắn giết Abel. (Genesis
4: from the 4th to the 6th; 2:26-29).
Câu hỏi 7: Đối tượng của
trích dẫn đã nói ở trên là gì?
Trả lời: Điều đó có thể cho thấy rõ rằng những suy nghĩ đầu tiên được đề xuất cho tâm trí của con người, về sự tồn tại của ĐCT và kiến thức này được lan truyền rộng rãi như thế nào giữa các hậu duệ của Adam. (2:30-33)
Trả lời: Điều đó có thể cho thấy rõ rằng những suy nghĩ đầu tiên được đề xuất cho tâm trí của con người, về sự tồn tại của ĐCT và kiến thức này được lan truyền rộng rãi như thế nào giữa các hậu duệ của Adam. (2:30-33)
Câu hỏi 8: Lời chứng nào có ngay lập tức trong con cháu của
Adam, để họ có chứng
minh sự tồn tại của một God?
Trả lời: Lời chứng của cha họ. Và sau khi họ được làm quen với sự tồn tại của Ngài, bằng lời chứng của cha họ, họ phụ thuộc vào việc thực hành đức tin của chính họ, để có kiến thức về cá tính, sự hoàn hảo và thuộc tính của Ngài. (2:23-26). [GT: lời chứng của cha, tạo ra Đạo truyền thống nơi con. Khi con có Faith thì bắt đầu học hỏi về cá tính, sự hoàn hảo và thuộc tính của ĐCT. Bởi vì chúng ta không thể tập trung faith vào một người mà chúng ta mơ hồ về người đó cũng như sự hoàn hảo của Ngài].
Trả lời: Lời chứng của cha họ. Và sau khi họ được làm quen với sự tồn tại của Ngài, bằng lời chứng của cha họ, họ phụ thuộc vào việc thực hành đức tin của chính họ, để có kiến thức về cá tính, sự hoàn hảo và thuộc tính của Ngài. (2:23-26). [GT: lời chứng của cha, tạo ra Đạo truyền thống nơi con. Khi con có Faith thì bắt đầu học hỏi về cá tính, sự hoàn hảo và thuộc tính của ĐCT. Bởi vì chúng ta không thể tập trung faith vào một người mà chúng ta mơ hồ về người đó cũng như sự hoàn hảo của Ngài].
Câu hỏi 9: Có ai khác trong
gia đình loài người, ngoài Adam, có một kiến thức về sự tồn tại của God, trong trường hợp
đầu tiên, bằng bất kỳ phương tiện nào khác ngoài lời chứng của con người?
Trả lời:
Không. Trước khi họ có thể có được một biểu hiện (manifestation) cho chính họ, một thực tế quan trọng
phải đã được truyền đạt xuống cho họ, bởi người Cha chung của họ: và vì vậy, từ
cha sang con, kiến thức được truyền
đạt rộng rãi, như kiến thức về sự tồn tại
của Ngài đã được biết đến; vì vậy bằng
phương tiện này, trong trường hợp đầu tiên, loài người đã có kiến thức về sự
tồn tại của ĐCT. (2:35, 36)
Câu hỏi 10:
thế nào để bạn biết rằng kiến thức về sự tồn tại của ĐCT đã được truyền đạt
theo cách này, trong các thời đại khác nhau trên thế giới?
Trả lời:
Theo niên đại [GT: gia phả] có được,
qua những mặc khải tiết lộ của God.
Câu hỏi 11:
Làm thế nào bạn phân chia thứ tự thời gian đó để dẫn nó đến một sự hiểu biết rõ
ràng?
Trả lời: Có
hai phần: Thứ nhất, bằng cách nắm lấy thời kỳ đầu của thế giới từ A-đam
đến Nô-ê; và thứ hai, từ Nô-ê đến Áp-ra-ham: từ những thời kỳ đó, sự hiểu
biết về sự tồn tại của ĐCT rất phổ thông, đến mức không có tranh chấp về ý tưởng
về sự tồn tại của Ngài đã được giữ lại trên thế giới.
Trả lời:
Chín; gồm cả Abel, người bị giết bởi anh trai mình.
Trả lời:
Abel, Seth, Enos, Cainan, Mahalaleel, Jared, Enoch,
Methusalah và Lamech.
Trả lời: Tám
trăm (800). (Genesis 5:4.)
Trả lời: Một
ngàn năm mươi sáu năm (1056).
Trả lời:
Lamech, người thứ chín từ Adam, (bao gồm Abel,) và cha của Nô-ê, năm mươi sáu
tuổi (56) khi Adam qua đời.
Trả lời: Hai
trăm bốn mươi ba năm (243).
Trả lời: Ba
trăm tám năm (380).
Trả lời: Bốn
trăm bảy mươi năm (475).
Trả lời: Năm
trăm ba mươi lăm (535).
Trả lời: Sáu
trăm năm năm (650).
Trả lời: Sáu
trăm chín mươi lăm năm (695).
Trả lời: Tám
trăm (800). Đối với mục này của tài khoản, xem phần thứ hai, paragraph 38.
Trả lời:
Chín.
Trả lời:
Abel, Seth; Enos, Cainan, Mahalaleel, Jared, Enoch, Methuselah và Lamech. (2:39)
Trả lời: Tám
trăm bốn mươi năm (840). (Genesis
5:13.)
Câu hỏi 42: Mahalaleel sống được bao lâu sau khi Jared được sinh ra?
Câu hỏi 43:
Mahalaleel bao nhiêu tuổi khi chết?
Trả lời: Tám
trăm chín mươi lăm năm (895). (Genesis
5:17)
Câu hỏi 45:
Tuổi của Jared khi ông ấy chết là bao nhiêu?
Trả lời: Ba
trăm năm (300). (Genesis
5:22).
Trả lời: Bảy
trăm tám mươi hai năm (782). (Genesis
5:26)
Trả lời:
Chín trăm sáu mươi chín năm (969). (Genesis
5:27.)
Trả lời: Năm
trăm chín mươi lăm năm (595). (Genesis
5:30.)
Câu hỏi 51:
Tuổi của Lamech khi anh ấy chết là bao nhiêu?
Trả lời: Bảy
trăm bảy mươi bảy năm (777). (Genesis
5:31.) Đối với tài khoản của mục cuối cùng
này, xem (11:40).
Câu hỏi 52:
Adam chết vào năm nào của thế giới?
Trả lời:
Trong chín trăm ba mươi (930).
Câu hỏi 53:
Enoch được chuyển thể vào năm nào?
Trả lời:
Trong chín trăm tám mươi bảy (987).
Trả lời:
Trong một nghìn bốn mươi hai (1042).
Trả lời:
Trong mười một trăm và bón mươi (1140).
Trả lời:
Trong mười hai trăm ba mươi lăm (1235).
Trả lời:
Trong mười hai trăm chín mươi (1290).
Trả lời:
Trong mười bốn trăm hai mươi hai (1422).
Trả lời: Năm
mười sáu trăm năm mươi (1650).
Trả lời: Năm
mười sáu trăm năm mươi sáu (1656). Đối với tài khoản này, xem (2:41)
Trả lời: Tám
mươi bốn năm (84).
Câu hỏi 62:
Bao nhiêu tuổi khi Cainan chết?
Trả lời: Một
trăm bảy mươi chín năm (179).
Trả lời: Hai
trăm ba mươi bốn năm (234).
Trả lời: Ba
trăm sáu mươi sáu năm (366).
Trả lời: Năm
trăm chín mươi lăm năm (595).
Trả lời: Sáu
trăm năm (600). Xem (2:42)
cho mục cuối cùng.
Trả lời:
Sáu.
Trả lời:
Sáu.
Câu hỏi 71: Theo tài khoản đã nói ở trên, kiến thức về sự tồn tại
của God được gợi ý đầu tiên như thế nào đối với tâm trí của con người?
Trả lời: Bằng
cách biểu hiện (manifestation) cho cha Adam của chúng ta, khi ông ở
trong sự hiện diện của God, cả trong và sau khi ông ở Eden. (2:44).
Câu hỏi 72: Kiến thức về sự tồn tại của God được phổ biến như thế
nào giữa các cư dân trên thế giới?
Theo Đạo
truyền thống từ cha đến con. (2:44)
Trả lời: Năm
trăm hai năm (225). (Genesis
5:32)
Trả lời:
Chín mươi tám.
Trả lời: Có
một số người cho rằng một trăm ba mươi năm (130), và những người khác bảy mươi
(70). (Genesis 12:4; 2:46.)
Câu hỏi 87: Số năm từ trận lụt đến ngày sinh của
Áp-ra-ham là bao nhiêu?
Trả lời: Giả
sử Áp-ra-ham được sinh ra khi Terah một trăm ba mươi tuổi, thì đó là ba trăm
năm mươi hai năm (352): nhưng nếu ông được sinh ra khi Terah bảy mươi tuổi, thì
đó là hai trăm chín mươi hai năm (292). (2:47)
Trả lời: Bốn
trăm ba mươi tám năm (438).
Trả lời: Bốn
trăm ba mươi ba năm (433).
Trả lời: Bốn
trăm sáu mươi bốn năm (464).
Trả lời: Hai
trăm ba mươi chín năm(239).
Trả lời: Hai
trăm ba mươi chín năm (239).
Trả lời: Hai
trăm ba mươi năm (230).
Trả lời: Một
trăm bốn mươi tám năm (148).
Trả lời: Giả
sử Terah đã một trăm ba mươi tuổi khi Áp-ra-ham ra đời, ông sống bảy mươi lăm
năm (75); nhưng nếu Áp-ra-ham được sinh ra khi Terah bảy mươi tuổi, ông sống một
trăm ba mươi lăm (135).
Trả lời: Hai
trăm năm năm (205). (Sáng thế ký 11:32.) Đối với tài khoản này từ khi sinh ra Arphaxed, đến cái chết của
Terah, xem (2:48)
Trả lời: Đồng
ý với trình tự thời gian đã nói ở trên, ông qua đời vào năm thứ chín mươi chín
mươi sáu của thế giới (1996).
Trả lời: Năm
mười chín trăm chín mươi bảy (1997).
Trả lời:
Trong hai ngàn sáu (2006).
Trả lời: Trong
hai ngàn hai mươi sáu(2026).
Trả lời:
Trong hai ngàn bốn mươi chin (2049).
Câu hỏi 111: Terah chết vào năm nào?
Trả lời:
Trong hai ngàn tám mươi ba (2083).
Trả lời:
Trong hai ngàn chín mươi sáu (2096).
Trả lời:
Trong hai mươi mốt trăm hai mươi sáu (2126).
Trong hai
mươi mốt trăm tám mươi ba (2183).
Trả lời:
Trong hai mươi mốt trăm tám mươi bảy (2187). Để biết tài khoản này của năm mà
những người đàn ông đó chết, xin xem (2:49-50)
Trả lời: Năm
mươi tám năm (58).
Trả lời: Một
trăm hai mươi tám (128).
Trả lời: Một
trăm tám mươi bảy (187).
Trả lời: Hai
trăm mười chin (219).
Trả lời: Hai
trăm tám mươi ba (283).
Trả lời: Ba
trăm mười ba (313).
Trả lời: Ba
trăm bốn mươi tám (348).
Trả lời: Mười
tám năm (18), nếu ông được sinh ra khi Terah một trăm ba mươi tuổi.
Trả lời: Bốn
mươi mốt năm (41).
Trả lời: Bảy
mươi lăm năm (75).
Trả lời: Tám
mươi tám (88).
Trả lời: Một
trăm mười tám năm (118).
Trả lời: Một
trăm năm mươi năm (150). Đối với điều này xem (2:52)
Mười.
Trả lời:
Shem, Arphaxed, Salah, Eber, Peleg, Reu; Serug, Nahor, Terah và Nahor, em trai
của Ápraham. (2:52)
Trả lời:
Toàn bộ.
Trả lời:
Tám.
Trả lời:
Nahor, em trai của Áp-ra-ham, Terah, Serug, Reu, Eber, Salah, Arphaxed và Shem.
(2:52)
Trả lời:
Tám.
Trả lời:
Shem, Arphaxed, Salah, Eber, Reu, Serug, Terah và Nahor, em trai của Ápraham.
(2:52)
Trả lời: Họ
đã chết.
Trả lời:
Peleg, trong những ngày trái đất bị chia cắt, và ông nội của Nahor, Abraham. (2:49)
Trả lời: Có
một. (2:50)
Trả lời:
Eber, người thứ tư từ Nô-ê. (2:50)
Trả lời:
Trong thời của Peleg.
Trả lời: Genesis
10:25.
Trả lời: Cho
đến khi Eber sinh được hai con trai; tên trên một là Peleg; vì trong thời đại của
Ngài, trái đất bị chia cắt.
Trả lời: Lời
chứng của con người, và chỉ có lời chứng của con người mà thôi. (2:56)
Câu hỏi 145: Điều gì đã kích thích các vị thánh tổ phụ tìm kiếm
siêng năng sau khi biết được vinh quang của ĐCT, sự hoàn hảo và thuộc tính của
mình?
Câu hỏi 146: Làm thế nào để con người có được kiến thức về vinh
quang của ĐCT, sự hoàn hảo và thuộc tính của Ngài?
Trả lời: Bằng
cách cống hiến hết mình cho sự phục vụ của Ngài, không ngừng cầu nguyện và cầu
xin, củng cố niềm tin vào Ngài, cho đến khi như Enoch, anh trai của Jared và
Moses, họ có được một biểu hiện của ĐCT cho chính họ. (2:56)
Câu hỏi 147: Có phải kiến thức về sự tồn tại của ĐCT chỉ là vấn đề
của truyền thống, được thành lập chỉ dựa trên lời chứng của con người, cho đến
khi một người nhận được một biểu hiện của ĐCT cho chính họ?
Trả lời:
đúng vậy.
Trả lời: Từ
toàn bộ bài giảng đầu tiên của phần thứ hai.
No comments:
Post a Comment