1
Trong bài đọc thứ hai, đã trình bày, làm
thế nào sự hiểu biết về sự tồn tại của God, đã đi vào thế giới, và bằng
cách nào những ý nghĩ đầu tiên này được in sâu vào tâm trí của con người, về một thực thể
như vậy đã thực sự tồn tại:
Và chính nhờ
sự hiểu biết về sự tồn tại của Ngài, mà một nền tảng được đặt ra
cho việc thực thi đức tin nơi Ngài, vì Ngài là thực thể duy nhất mà đức tin có
thể tập trung vào để đưa đến sự sống và sự cứu rỗi. Vì đức tin không thể tập trung vào sự tồn tại của một
thực thể mà chúng ta không có ý tưởng; bởi vì ý tưởng về sự tồn tại của Ngài
trong khoẳng khắc đầu tiên, chính là (đức tin) thực hiện nơi Ngài.
Romans 10:14: "Nhưng họ
chưa tin Ngài thì kêu cầu sao được? Chưa nghe nói về Ngài thì làm thể nào mà
tin? Nếu chẳng ai rao giảng, thì nghe làm sao?" (hoặc chưa có một người được
gửi đến để nói với họ?) Vì vậy, đức tin đến bằng cách nghe lời của God.
[GT: theo Bản Dịch Mới của JS. Xin chú ý: việc làm (sự nghe giảng)=> đức tin => Nhưng sau đó chính đức tin làm tròn sự nghe giảng. Cho nên Paul mới nói Đức tin quí hơn việc làm vì sự công bình được sinh ra từ đức tin]
[GT: theo Bản Dịch Mới của JS. Xin chú ý: việc làm (sự nghe giảng)=> đức tin => Nhưng sau đó chính đức tin làm tròn sự nghe giảng. Cho nên Paul mới nói Đức tin quí hơn việc làm vì sự công bình được sinh ra từ đức tin]
2
Chúng ta hãy nhận thấy, rằng
đây là ba điều cần thiết,
để bất kỳ một thực thể “có lý trí và thông minh” nào cũng có thể thực hiện đức
tin vào God dẫn đến sự sống và sự cứu rỗi.
3 Đầu
tiên, ý tưởng rằng Ngài thực sự tồn tại.
4 Thứ
hai, Một ý tưởng chính xác về cá tính (character), sự hoàn hảo và thuộc
tính (attributes) của Ngài.
5 Thứ
ba, Một sự hiểu biết thực sự làm quá trình sống mà anh ta đang theo đuổi,
theo ý muốn của Ngài.
– Vì với việc
không quen thuộc với ba điều quan trọng này, đức tin của mọi “thực thể có lý trí”
đã không hoàn hảo và không thể sinh sản;
– Nhưng với
kiến thức rõ rệt này, nó có thể trở nên hoàn hảo và sinh sôi nẩy nở, có rất nhiều
điều công bình dẫn đến sự ngợi khen và vinh quang của God Cha và Chúa Giêsu
Kitô.
6 Trước
đây chúng ta đã làm quen với cách mà ý tưởng về sự tồn tại của Ngài đi
vào thế giới, cũng như thực tế về sự tồn tại của Ngài, bây giờ chúng ta sẽ tiến
hành kiểm tra cá tính, sự hoàn hảo và thuộc tính của Ngài,
– để lớp học
này có thể nhìn thấy, không chỉ “đất ngay chính” để thực hiện đức tin nơi Ngài,
dẫn đến sự sống và sự cứu rỗi,
– nhưng cả những
lý do, mà thế giới này có ý tưởng về sự tồn tại của Ngài, đã nẩy nở, khi thực hiện đức tin vào Ngài là Cha của tất
cả người sống.
7 Vì
chúng ta đã mắc nợ một sự mặc khải mà God đã ban ra cho các tạo vật của
mình, trong khoẳng khắc đầu tiên, cho ý tưởng về sự tồn tại Ngài,
– vậy, tương tự theo cách đó,
chúng ta đã mắc nợ sự mặc khải mà Ngài đã ban cho loài thụ tạo, từ giây
phút đầu tiên, để hiểu đúng về cá tính, sự hoàn hảo và thuộc tính của Ngài;
– bởi vì không có
những điều mặc khải mà Ngài đã ban cho chúng ta, thì không một người nào
bằng sự tìm kiếm có thể tìm ra God (Job
11:7-9).
1 Cor. 2:9-11 viết:
" Song le, như
có chép rằng: Ấy là sự mắt chưa thấy, tai chưa nghe, Và lòng người chưa nghĩ đến,
thì God đã sắm sẵn điều ấy cho những người yêu mến Ngài; God đã dùng Đức Thánh
Linh để bày tỏ những sự đó cho chúng ta, vì Đức Thánh Linh dò xét mọi sự, cả đến
sự sâu nhiệm của God nữa. Vả, nếu không phải là linh hồn trong lòng người, thì
ai biết sự trong lòng người? Cũng một lẽ ấy, nếu không phải là Thánh Linh của
God, thì chẳng ai biết sự trong God. "
8 Đã
nói có rất nhiều [GT: rất nhiều về những mặc khải],
ta tiến hành kiểm tra các cá tính mà những điều mặc khải đã diễn tả về God.
9
Môi-se cung cấp cho chúng ta lời tường thuật sau đây trong Exodus,
34:6: "Ngài đi ngang qua mặt người, hô rằng:
Giê-hô-va! Giê-hô-va! là Đức Chúa Trời thương xót, ban ơn, chậm giận, đầy dẫy
nhân từ và lẽ thật."
Psalms
103:6-8 viết: "6 Giê-hô-va thi hành sự công bình Và sự phán xét cho mọi người bị
hà hiếp. 7 Ngài bày tỏ cho Môi-se đường lối Ngài, Và cho Y-sơ-ra-ên biết
các công việc Ngài. 8 Giê-hô-va có lòng thương xót, ban ơn, Chậm giận, và đầy thương
xót."
Psalms 103:17-18: “17 Song sự thương
xót Giê-hô-va hằng có đời đời trên những người kính sợ Ngài, Và sự công bình
Ngài dành cho con của con cháu họ (children's children). 18 Tức là cho người nào giữ
giao ước Ngài, Và nhớ lại các điều răn Ngài mà làm theo."
Psalms
90:2: "Trước khi núi non chưa sanh ra, Đất
và thế gian chưa dựng nên, Từ trước vô cùng cho đến đời đời Chúa là God."
Hebrews
1:10-12: "10 Hỡi Chúa, ban đầu trước hết Chúa đã dựng nền đất, Và các
từng trời cũng là công việc của tay Chúa. 11 Trời đất sẽ hư đi, nhưng Chúa hằng
có; Trời đất sẽ cũ đi như cái áo; 12 Ngài sẽ cuốn nó lại như cái áo
choàng, Rồi trời đất sẽ biến đổi, Nhưng Chúa vẫn y nguyên, Các năm của Chúa
không hề cùng. "
James
1:17: "mọi ân điển tốt lành cùng sự ban
cho trọn vẹn đều đến từ nơi cao và bởi Cha sáng láng mà xuống, trong Ngài chẳng
có một sự thay đổi, cũng chẳng có bóng của sự biến cải nào."
Malachi
3:6: Vì ta là Giê-hô-va, ta không hề thay đổi;
bởi cớ đó, các ngươi là con trai Gia-cốp, chẳng bị diệt vong.
10 Giáo
lý và Giao ước 3:2: Vì God không bước trên những
con đường quanh co, Ngài không rẽ qua phải hay trái, Ngài cũng không thay đổi
những gì Ngài đã phán, vậy nên những con đường của Ngài rất thẳng, và lộ trình
của Ngài là một vòng tròn vĩnh cửu.
GLGƯ 35:1: Hãy lắng nghe tiếng nói của
Chúa, God của các ngươi, là An Pha và Ô Mê Ga, là ban đầu và cuối cùng, lộ
trình của Ngài là một vòng tròn vĩnh cửu; là Đấng hôm nay cũng như hôm qua và
cho đến đời đời không hề thay đổi.
11 Numbers
23:19: God chẳng phải là người để nói dối, Cũng
chẳng phải là con loài người đặng hối cải.
1
John 4:8: Ai chẳng yêu, thì không biết God; vì
God là sự yêu thương.
Acts
10:34: Phi-e-rơ bèn mở miệng nói rằng: Quả thật,
ta biết Đức Chúa Trời chẳng hề vị nể ai, nhưng trong các dân, hễ ai kính sợ Ngài và làm sự công
bình, thì nấy được đẹp lòng Chúa.
12 Từ
những lời chứng trên, chúng ta học được những điều sau đây để tôn trọng các cá tính của God. [GT: God
có 6 cá tính. Bạn sẽ thấy con số “6” rất quan trọng này nói trong sách Khải huyền 13:17-18 vì ai có nó thì mới mua và bán được trong thời đại ngàn năm thứ 7 khi nó xẩy ra].
13 Trước tiên, Ngài là God
trước khi thế giới được tạo ra, và cũng chính là God sau khi đó.
14 Thứ hai, Ngài đầy
thương xót, và ban ơn, chậm giận, dồi dào lòng nhân từ,
và Ngài đã có từ muôn đời, và sẽ mãi mãi tồn tại.
15 Thứ ba, Ngài không
thay đổi, cũng không có sự biến đổi với Ngài; nhưng Ngài y như vậy từ
muôn đời đến muôn đời, vẫn như ngày hôm qua và mãi mãi; và con đường của Ngài
là một vòng tròn vĩnh cửu, không có biến đổi.
16 Thứ tư, Ngài là một God của
sự thật và không thể nói dối.
17 Thứ năm, God không tôn
trọng ai; nhưng trong mọi quốc gia, ai kính sợ Chúa và làm việc công bình đều
được Ngài chấp nhận.
18 Thứ sáu, God là tình
yêu.
19 Một
sự quen thuộc với những thuộc tính này trong cá tính “thần thánh”, về cơ
bản là cần thiết, để đức tin của bất kỳ thực thể có lý trí nào đều có thể tập
trung vào Ngài để đưa đến sự sống và sự cứu rỗi.
Vì nếu trong khoẳng khắc đầu tiên, anh ta
không tin Ngài là God, là người sáng tạo và là người nắm giữ tất cả mọi thứ,
anh ta không thể tập trung đức tin vào Ngài để dẫn đến sự sống và sự cứu rỗi, vì
sự sợ hãi (fear) đã
lớn hơn anh ta , nó sẽ cản trở tất cả các kế hoạch của Ngài, và Ngài, giống như
các thần dân ngoại, sẽ không thể thực hiện lời hứa của mình;
Nhưng nhìn thấy Ngài là God trên tất cả, từ
muôn đời đến muôn đời, Đấng sáng tạo và là Người nắm giữ tất cả mọi thứ, không
có nỗi sợ hãi nào có thể tồn tại trong tâm trí của những người đặt niềm tin vào
Ngài, để về mặt này, đức tin của họ không bị lung lay.
20 Thứ hai là: Trừ khi
Ngài thương xót, và nhân từ, chậm giận, nhịn nhục và đầy
lòng nhân từ, đối với điểm yếu của bản chất con người, sự mong manh quá lớn và bất toàn của con người,
–trừ khi
họ tin rằng những điều tuyệt vời đó tồn tại trong cá tính “thần thánh”, đức tin
cần thiết cho sự cứu rỗi không thể tồn tại;
– vì nghi ngờ (doubt) sẽ thay
thế đức tin, và những người biết sự yếu đuối và trách nhiệm của họ đối với tội
lỗi, sẽ luôn nghi ngờ về sự cứu rỗi, nếu không phải là ý tưởng mà họ có về cá
tính xuất sắc của God, rằng
Ngài là chậm giận, và nhịn nhục lâu dài, và dễ tha thứ, và xá điều gian ác, lỗi
phạm và tội lỗi. Một ý tưởng thực tế này làm mất đi sự nghi ngờ, và làm cho đức
tin cực kỳ mạnh mẽ.
21
Nhưng điều cần thiết không kém là: con người nên có ý tưởng rằng Ngài là một God không thay đổi, để có niềm tin vào
Ngài, vì đó là ý tưởng rằng Ngài ban ơn và nhịn nhục. Vì nếu không có ý tưởng về sự không thay đổi
trong cá tính của Thần,
sự nghi ngờ (doubt) sẽ thay thế đức tin.
–Nhưng với ý
tưởng rằng Ngài không thay đổi, đức tin giữ vững sự xuất sắc trong cá tính của Ngài
với sự tự tin không lay chuyển, tin rằng Ngài vẫn như ngày hôm qua, ngày nay và
mãi mãi, và con đường của Ngài là một vòng vĩnh cửu.
22 Và
một lần nữa, ý tưởng rằng
Ngài là một God của sự thật và không thể nói dối, cũng
cần thiết như đối với việc thực hiện đức
tin nơi Ngài, giống như ý tưởng về sự không thay đổi của Ngài.
–Vì không có ý tưởng Ngài là một vị thần của sự thật
và không thể nói dối, niềm tin (confidence) cần thiết được đặt vào lời nói của Ngài để thực thi đức
tin nơi Ngài, không thể tồn tại.
–Nhưng có ý tưởng rằng Ngài
không phải là một người mà có thể nói dối, nó mang lại sức mạnh cho tâm trí của
loài người để thực hiện đức tin vào Ngài.
23
Nhưng cũng cần thiết là loài người cần có một ý tưởng rằng Ngài không tôn trọng
con người
[GT: God không thiên vị ai];
– vì với ý tưởng về
tất cả những sự xuất sắc khác trong cá tính của Ngài, và điều này muốn, loài người
không thể thực hiện đức tin vào Ngài, bởi vì nếu Ngài là người tôn trọng con người, họ không thể
nói được đặc ân của
họ là gì, cũng như họ có quyền
(authorized) bao xa để thực hiện đức tin vào Ngài, hoặc liệu họ có được phép làm (authority
to do) điều đó không, vì
tất cả là đang bị nhầm lẫn;
– nhưng, tâm trí của
con người khi đã làm quen với sự thật ở điểm này, là Ngài không tôn trọng con người, thì vừa khi
đó, họ sẽ thấy rằng
họ có thẩm quyền bởi đức tin để giữ cuộc sống vĩnh cửu giàu ơn huệ nhất
của trời, bởi vì God không tôn trọng mọi người, và rằng mọi người ở mọi quốc gia đều có một đặc ân như
nhau.
24 Và
cuối cùng,
nhưng không kém phần quan trọng đối với việc thực thi đức tin vào God, là ý tưởng
rằng Ngài là tình yêu;
vì với tất cả
những sự xuất sắc khác trong cá tính của Ngài, nếu không có điều này ảnh hưởng
đến họ, họ không thể có sự tự chủ (thống trị) mạnh mẽ vượt quá đối với tâm trí (yếu
đuối) của loài người;
–Nhưng khi ý
tưởng này được trồng vào tâm trí rằng Ngài là tình yêu, ai có thể nhìn thấy “đất
ngay chính”, mà loài người của mọi nước, mọi chi phái, mọi tiếng, phải thực hiện
đức tin vào God để có được sự sống đời đời?
25 Từ
những mô tả ở trên về cá tính của Thần, qua những điều mặc khải, cho loài người,
(chúng ta) có một nền tảng chắc chắn về việc thực thi đức tin nơi Ngài giữa mọi dân, mọi quốc gia và mọi chi phái, từ
thế hệ này sang thế hệ khác, và từ đời
này sang đời kia.
26
Chúng ta hãy quan sát ở đây rằng những điều đã nói ở trên là cá tính của God ban ra trong
những điều mặc khải của Ngài cho các vị thánh ngày xưa,
–và đó cũng
là cá tính của Ngài được ban ra trong những điều mặc khải của Ngài cho các
Thánh ngày sau, để các thánh của ngày xưa và các thánh ngày sau, cả hai đều giống
nhau về mặt này;
–"Các
Thánh Hữu Ngày Sau" có “đất tốt” để thực hiện đức tin vào God, cũng như
các vị thánh ngày xưa đã có; bởi vì cùng một cá tính của Ngài đã được trao
cho cả hai.
Câu hỏi và trả lời về các nguyên tắc của bài học bên trên.
Câu hỏi 1: Điều gì
đã được thể hiện trong bài giảng thứ hai?
Trả Lời: kiến thức về sự tồn tại của God đi vào thế giới. (3:1)
Trả Lời: kiến thức về sự tồn tại của God đi vào thế giới. (3:1)
Câu hỏi 2: Ảnh
hưởng của ý tưởng về sự tồn tại của God giữa loài người là gì?
Trả Lời: Nó đặt nền tảng cho việc thực hiện đức tin nơi Ngài (3:1)
Câu hỏi 3: Ý tưởng về sự tồn tại của Ngài, trong giây phút đầu tiên, có cần thiết để thực hiện đức tin nơi Ngài không?
Trả Lời: Đúng vậy, rất cần thiết. (3:11)
Câu hỏi 4: Làm thế nào để bạn chứng minh điều đó?
Trả Lời: Đọc Romans 10:14. (3:1).
Câu hỏi 5: Có bao nhiêu điều cần thiết để chúng ta hiểu, tôn trọng Vị thần và mối quan hệ của chúng ta với Ngài, để chúng ta có thể thực hiện đức tin vào Ngài cho cuộc sống và sự cứu rỗi?
Trả Lời: Có ba điều. (3:2)
Câu hỏi 6: Chúng là gì?
Trả Lời: Thứ nhất, rằng ĐCT thực sự tồn tại: Thứ hai, những ý tưởng chính xác về cá tính, sự hoàn hảo và thuộc tính của Ngài; và Thứ ba, rằng sự học mà chúng ta theo đuổi là theo ý muốn và ý chí của Ngài. (3:3-5)
Câu hỏi 7: Ý tưởng về bất kỳ một hoặc hai trong số những điều được đề cập ở trên, có cho phép một người thực hiện đức tin vào ĐCT không?
Trả Lời: Không, nó sẽ không đủ, vì nếu không có ý tưởng của tất cả, đức tin sẽ không hoàn hảo và không hiệu quả. (3:15)
Câu hỏi 8: Một ý tưởng về cả ba điều này sẽ đặt nền tảng chắc chắn cho việc thực thi đức tin vào ĐCT, để có được sự sống và sự cứu rỗi?
Trả Lời: đúng vậy; vì ý tưởng về cả ba điều này, tạo đức tin có thể trở nên hoàn hảo và có kết quả, có rất nhiều sự công bình đưa đến sự ngợi khen và vinh quang của ĐCT. (3:5)
Câu hỏi 9: Làm thế nào để chúng ta làm quen với những điều được đề cập trước đó để tôn trọng Thần và tôn trọng chính mình?
Trả Lời: Bằng sự mặc khải. (3:6)
Câu hỏi 10: Những điều này có thể được tìm ra bằng bất kỳ phương tiện nào khác ngoài sự mặc khải không?
Trả Lời: không thể.[GT: 1Cor 1:21]
Câu hỏi 11: Làm thế nào để bạn chứng minh điều đó?
Trả Lời: Theo thánh thư: Gióp 11: 7-9. 1 Cô-rinh-tô 2: 9-11. (3:17)
Câu hỏi 12: Chúng ta học được điều gì trong những mặc khải của God về sự tôn trọng cá tính của Ngài?
Trả Lời: Chúng ta học sáu điều sau đây. Đầu tiên, rằng Ngài là ĐCT trước khi thế giới được tạo ra, và cũng chính là ĐCT sau khi nó được tạo ra. Thứ hai, rằng Ngài thương xót và nhân từ, chậm giận, dồi dào lòng tốt, và Ngài đã như vậy từ muôn đời, và sẽ mãi mãi như vậy. Thứ ba, rằng Ngài không thay đổi, cũng không có sự biến đổi với Ngài, và rằng con đường của Ngài là một vòng vĩnh cửu. Thứ tư, Ngài là một vị thần của sự thật và không thể nói dối. Thứ năm, rằng Ngài không tôn trọng con người; và Thứ sáu, rằng Ngài là tình yêu. (3:12-18).
Câu hỏi 13: Nơi nào bạn tìm thấy những điều mặc khải cho chúng ta ý tưởng này về cá tính của thần?
Trả Lời: Trong kinh thánh và sách Giáo Lý và Giao Ước, và chúng được trích dẫn trong bài giảng thứ ba. (3:9-11)
Câu hỏi 14: Nó có ảnh hưởng gì đối với bất kỳ lý trí nào, khi không có ý tưởng rằng Chúa là ĐCT, người sáng tạo và là người nắm giữ tất cả mọi thứ?
Trả Lời: Nó sẽ ngăn cản anh ta thực hiện đức tin vào Ngài cho đến sự sống và sự cứu rỗi.
Câu hỏi 15: Tại sao điều đó ngăn cản bạn thực hiện đức tin vào ĐCT?
Trả Lời: Bởi vì bạn sẽ như người ngoại đạo không biết có một thực thể lớn hơn và mạnh hơn bạn, và do đó bạn bị ngăn cản thực hiện lời hứa của Ngài. (3:19)
Câu hỏi 16: Ý tưởng này có ngăn chặn được sự nghi ngờ không?
Trả Lời: đúng vậy; vì những người có ý tưởng này cho phép họ thực hiện đức tin vì không có sự nghi ngờ này. (3:19)
Câu hỏi 17: Có phải cũng cần thiết phải có ý tưởng rằng ĐCT nhân từ, và ban ơn, chậm giận?
Trả Lời: đúng vậy. (3:20)
Câu hỏi 18: Tại sao cần thiết?
Trả Lời: Bởi vì có sự yếu đuối và không hoàn hảo của bản chất nhân loại, và những nhược điểm lớn lao của con người; vì đó là sự yếu đuối, và những nhược điểm của bạn, bạn phải chịu trách nhiệm liên tục về tội lỗi; và nếu ĐCT không nhịn nhục lâu dài, và đầy lòng trắc ẩn, ban ơn, và thương xót và tha thứ, con người sẽ bị đuổi ra ngoài, bị cắt đứt với Ngài trước khi sự nghi ngờ xẩy ra và không thể thực hiện đức tin:
Trả Lời: Nó đặt nền tảng cho việc thực hiện đức tin nơi Ngài (3:1)
Câu hỏi 3: Ý tưởng về sự tồn tại của Ngài, trong giây phút đầu tiên, có cần thiết để thực hiện đức tin nơi Ngài không?
Trả Lời: Đúng vậy, rất cần thiết. (3:11)
Câu hỏi 4: Làm thế nào để bạn chứng minh điều đó?
Trả Lời: Đọc Romans 10:14. (3:1).
Câu hỏi 5: Có bao nhiêu điều cần thiết để chúng ta hiểu, tôn trọng Vị thần và mối quan hệ của chúng ta với Ngài, để chúng ta có thể thực hiện đức tin vào Ngài cho cuộc sống và sự cứu rỗi?
Trả Lời: Có ba điều. (3:2)
Câu hỏi 6: Chúng là gì?
Trả Lời: Thứ nhất, rằng ĐCT thực sự tồn tại: Thứ hai, những ý tưởng chính xác về cá tính, sự hoàn hảo và thuộc tính của Ngài; và Thứ ba, rằng sự học mà chúng ta theo đuổi là theo ý muốn và ý chí của Ngài. (3:3-5)
Câu hỏi 7: Ý tưởng về bất kỳ một hoặc hai trong số những điều được đề cập ở trên, có cho phép một người thực hiện đức tin vào ĐCT không?
Trả Lời: Không, nó sẽ không đủ, vì nếu không có ý tưởng của tất cả, đức tin sẽ không hoàn hảo và không hiệu quả. (3:15)
Câu hỏi 8: Một ý tưởng về cả ba điều này sẽ đặt nền tảng chắc chắn cho việc thực thi đức tin vào ĐCT, để có được sự sống và sự cứu rỗi?
Trả Lời: đúng vậy; vì ý tưởng về cả ba điều này, tạo đức tin có thể trở nên hoàn hảo và có kết quả, có rất nhiều sự công bình đưa đến sự ngợi khen và vinh quang của ĐCT. (3:5)
Câu hỏi 9: Làm thế nào để chúng ta làm quen với những điều được đề cập trước đó để tôn trọng Thần và tôn trọng chính mình?
Trả Lời: Bằng sự mặc khải. (3:6)
Câu hỏi 10: Những điều này có thể được tìm ra bằng bất kỳ phương tiện nào khác ngoài sự mặc khải không?
Trả Lời: không thể.[GT: 1Cor 1:21]
Câu hỏi 11: Làm thế nào để bạn chứng minh điều đó?
Trả Lời: Theo thánh thư: Gióp 11: 7-9. 1 Cô-rinh-tô 2: 9-11. (3:17)
Câu hỏi 12: Chúng ta học được điều gì trong những mặc khải của God về sự tôn trọng cá tính của Ngài?
Trả Lời: Chúng ta học sáu điều sau đây. Đầu tiên, rằng Ngài là ĐCT trước khi thế giới được tạo ra, và cũng chính là ĐCT sau khi nó được tạo ra. Thứ hai, rằng Ngài thương xót và nhân từ, chậm giận, dồi dào lòng tốt, và Ngài đã như vậy từ muôn đời, và sẽ mãi mãi như vậy. Thứ ba, rằng Ngài không thay đổi, cũng không có sự biến đổi với Ngài, và rằng con đường của Ngài là một vòng vĩnh cửu. Thứ tư, Ngài là một vị thần của sự thật và không thể nói dối. Thứ năm, rằng Ngài không tôn trọng con người; và Thứ sáu, rằng Ngài là tình yêu. (3:12-18).
Câu hỏi 13: Nơi nào bạn tìm thấy những điều mặc khải cho chúng ta ý tưởng này về cá tính của thần?
Trả Lời: Trong kinh thánh và sách Giáo Lý và Giao Ước, và chúng được trích dẫn trong bài giảng thứ ba. (3:9-11)
Câu hỏi 14: Nó có ảnh hưởng gì đối với bất kỳ lý trí nào, khi không có ý tưởng rằng Chúa là ĐCT, người sáng tạo và là người nắm giữ tất cả mọi thứ?
Trả Lời: Nó sẽ ngăn cản anh ta thực hiện đức tin vào Ngài cho đến sự sống và sự cứu rỗi.
Câu hỏi 15: Tại sao điều đó ngăn cản bạn thực hiện đức tin vào ĐCT?
Trả Lời: Bởi vì bạn sẽ như người ngoại đạo không biết có một thực thể lớn hơn và mạnh hơn bạn, và do đó bạn bị ngăn cản thực hiện lời hứa của Ngài. (3:19)
Câu hỏi 16: Ý tưởng này có ngăn chặn được sự nghi ngờ không?
Trả Lời: đúng vậy; vì những người có ý tưởng này cho phép họ thực hiện đức tin vì không có sự nghi ngờ này. (3:19)
Câu hỏi 17: Có phải cũng cần thiết phải có ý tưởng rằng ĐCT nhân từ, và ban ơn, chậm giận?
Trả Lời: đúng vậy. (3:20)
Câu hỏi 18: Tại sao cần thiết?
Trả Lời: Bởi vì có sự yếu đuối và không hoàn hảo của bản chất nhân loại, và những nhược điểm lớn lao của con người; vì đó là sự yếu đuối, và những nhược điểm của bạn, bạn phải chịu trách nhiệm liên tục về tội lỗi; và nếu ĐCT không nhịn nhục lâu dài, và đầy lòng trắc ẩn, ban ơn, và thương xót và tha thứ, con người sẽ bị đuổi ra ngoài, bị cắt đứt với Ngài trước khi sự nghi ngờ xẩy ra và không thể thực hiện đức tin:
Do đó, bạn sẽ bị nghi ngờ liên tục và không thể thực hiện đức tin: vì
nghi ngờ là không có sức mạnh, nhưng bởi vì con người tin rằng ĐCT đầy lòng trắc ẩn
và tha thứ, nhịn nhục và chậm
giận, bạn có
thể thực hiện đức tin vào
Ngài và vượt
qua sự nghi ngờ, để trở nên cực kỳ mạnh mẽ. (3:20)
Câu hỏi 19: Có phải con người sẽ không công bằng không cần thiết phải có ý tưởng rằng ĐCT không thay đổi, cũng không có sự sai lệch với anh ta, để thực hiện đức tin vào Ngài để dẫn đến sự sống và sự cứu rỗi?
Câu hỏi 19: Có phải con người sẽ không công bằng không cần thiết phải có ý tưởng rằng ĐCT không thay đổi, cũng không có sự sai lệch với anh ta, để thực hiện đức tin vào Ngài để dẫn đến sự sống và sự cứu rỗi?
Trả Lời: Đúng
như vậy; bởi vì nếu không có điều này, anh ta, vì không biết lòng
thương xót của Chúa, sự chịu đựng đau khổ lâu dài của Ngài
sẽ biến Ngài thành người tàn nhẫn hấp tấp, tình yêu của Ngài thành sự thù hận
và do đó, một người
không thể thực hiện được đức tin vào
Ngài;
Nhưng có
được ý tưởng rằng Ngài không
thể thay đổi, con người có thể có niềm tin vào Ngài liên tục, tin rằng
những gì Ngài là
ngày hôm qua Ngài sẽ
là ngày hôm nay, và sẽ là mãi mãi. (3:21)
Câu hỏi 20: Có cần thiết không, khi loài người có ý tưởng rằng God là một thực thể của sự thật, trước khi họ có thể có niềm tin hoàn hảo vào Ngài?
Câu hỏi 20: Có cần thiết không, khi loài người có ý tưởng rằng God là một thực thể của sự thật, trước khi họ có thể có niềm tin hoàn hảo vào Ngài?
Trả Lời: cần
thiết; vì trừ khi loài người có ý tưởng này, họ không thể đặt niềm tin vào lời
nói của Ngài, và không thể đặt niềm tin vào lời nói của Ngài, họ không thể có đức
tin vào Ngài; nhưng khi tin rằng Ngài là một vị thần của sự thật và lời nói của
Ngài không thể thất bại, đức tin của họ có thể nằm trong Ngài mà không nghi ngờ
gì. (3:22)
Câu hỏi 21:
Con người có thể thực hiện đức tin vào ĐCT để có được sự sống đời đời trừ khi
anh ta tin rằng ĐCT không tôn trọng con người không?
Trả Lời: Anh
ta không thể; bởi vì không có ý tưởng này, anh ta chắc chắn không thể biết rằng
đó là đặc quyền của mình nên phải làm, và do nghi ngờ này, đức tin của anh ta
không thể đủ mạnh để cứu anh ta. (3:23)
Câu hỏi 22:
Liệu một người có thể thực hiện đức tin vào ĐCT, để được cứu, trừ khi anh ta có
ý tưởng rằng ĐCT là tình yêu?
Trả Lời: Anh
ta không thể; bởi vì con người không thể yêu Chúa, trừ khi anh ta có ý tưởng rằng
Chúa là tình yêu, và nếu anh ta không yêu Chúa, anh ta không thể có đức tin vào
Ngài. (3:24)
Trả Lời: Để
đặt nền tảng cho việc thực hiện đức tin nơi Ngài, theo như kiến thức mở rộng
giữa tất cả mọi người, mọi tiếng nói, ngôn ngữ, giáo dục, và quốc gia và từ năm
này sang năm khác, và từ thế hệ này sang thế hệ khác. (3:25).
Câu hỏi 24:
Đây có phải là cá tính (character) mà God đã cho mình mặc cho mình không?
Trả Lời: Đúng
vậy, Đây là tất cả các tiết lộ của Ngài cho các vị thánh ngày xưa, hay các vị
thánh ngày sau, để tất cả họ có quyền thực thi đức tin vào Ngài, và mong đợi bằng
cách thực thi đức tin của họ, để được hưởng những phước lành tương tự. (3:26)
No comments:
Post a Comment